NỘP YÊU CẦU KHỞI TỐ HÌNH SỰ
Vụ án cưỡng chế cái điều không có trong nội dung bản án của chấp hành viên Chi cục Thi hành án Thanh Trì Cao Thị Minh Hằng đã qua 3 năm 10 tháng chẵn.
Xem “Cưỡng chế trái luật, được bao che đến cùng”
Tôi khiếu nại lên Chi cục trưởng chi cục thi hành án Thanh Trì thì ông ta bênh, bác bỏ đơn, cho là chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng đã thi hành đúng bản án. Khiếu nại tiếp lên Cục THA Hà Nội thì vẫn trả lời như thế, mặc dù miệng thì công nhận việc làm của Cao Thị Minh Hằng là sai. Liều đến thế là cùng.
Hết mất quyền khiếu nại vì đã qua 2 cấp, tôi tố cáo lên Bộ tư pháp. Đã 2 năm 9 tháng rồi nhưng Bộ tư pháp không trả lời. Tôi đã phải dùng đến những lời lẽ chẳng nhẹ nhàng gì nhưng họ vẫn lờ.
Xem “Thư gửi ông Hà Hùng Cường Bộ trưởng tư pháp”
Cô bạn tôi bảo anh nói thẳng và gay gắt thế, họ ghét, họ không giải quyết thì sao. Tôi bảo anh không có lối suy nghĩ như thế. Càng xin người ta ban phát lòng thương, càng không được việc. Cái nhận được chỉ là sự coi thường mà thôi. Nguy hiểm hơn là cái xấu, cái ác vẫn tiếp tục hoành hành.
Chẳng còn cách nào hơn, tôi đành viết đơn yêu cầu khởi tố tình sự đối với chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng. Chẳng ai muốn …
Hôm nay tôi nộp đơn, được tiếp chu đáo, dễ chịu, không gây khó dễ gì. Lại có thiện cảm với Viện kiểm sát ND Thanh Trì. Cũng hy vọng mọi việc giải quyết sau đó sẽ công tâm. Nhưng đã có thâm niên khiếu kiện, tôi đâu dám ảo tưởng.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội ngày 07 tháng 10 năm 20011
YÊU CẦU KHỞI TỐ HÌNH SỰ
Kính gửi: VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THANH TRÌ
I/ Người bị hại:
1. Nguyễn Tường Thụy đại diện cho gia đình bị hại
Cựu chiến bình Việt nam, đã nghỉ hưu.
Chứng minh nhân dân số: 012424536 do CA Hà Nội cấp ngày 30/3/2001
2. Và vợ là Phạm Thị Lân
Chứng minh nhân dân số: 012678021 do CA Hà Nội cấp ngày 09/7/2000
3. Địa chỉ chung: số nhà 11 cụm Quỳnh Lân, xã Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội
ĐT: (04) 36884297 / 0983485952
II/ Người bị yêu cầu khởi tố:
Chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng
Chi cục thi hành án huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội.
III/ Tóm tắt sự việc:
Tháng 10 năm 2005, tôi có nhu cầu làm lại nhà. Khi tôi đang dỡ nhà cũ thì nhà liền kề là ông Vũ Xuân Đến huy động anh em họ hàng mang sắt, búa xông vào nhà tôi đóng cọc chiếm đất và đánh đập gia đình tôi. Gọi cảnh sát 113 cũng không giải quyết được gì. Tố cáo đến chính quyền và công an các cấp không ai trả lời. Đến khi tôi ra chính quyền xin giấy phép làm nhà thì UBND xã Vĩnh Quỳnh nói là nhà ông Đến có đơn tranh chấp nên không thể cấp phép.
Phần đất họ tranh chấp thuộc thửa đất tôi và chủ cũ quản lý, sử dụng từ trước năm 1993.
Để có thể xin phép làm nhà, tôi buộc phải khởi kiện lên Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì yêu cầu xác định ranh giới đất.
Bản án sơ thẩm số 07/2006/DS-ST ngày 17/4/2006 của TAND huyện Thanh Trì xác nhận phần đất nhà ông Đến tranh chấp thuộc quyền sử dụng của nhà tôi. Sau đó nhà ông Đến kháng cáo.
Bản án phúc thẩm số 167/2006/DSPT ngày 24/7/2006 của TAND Thành phố Hà Nội cho rằng:
“Chưa có cơ sở pháp lý nào để xác định diện tích đất đang có tranh chấp (giọt gianh) rộng 0,2m dài 7,7m giáp bức tường bếp + vệ sinh nhà ông Đến (phía bên nhà ông Thụy, bà Lân) là đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng ông Thụy, bà Lân. Tòa sơ thẩm đã buộc vợ chồng ông Đến phải phá bỏ phần giọt gianh này là không có cơ sở pháp luật. Cần sửa bản án sơ thẩm bác yêu cầu của nguyên đơn …”
Và quyết định:
“Bác yêu cầu của vợ chồng ông Nguyễn Tường Thụy, bà Phạm Thị Lân đòi vợ chồng ông Vũ Xuân Đến và bà Trần Thị Thuận quyền sử dụng 1,56 m2 đất (rộng 0,2m x 7,7m dài) phần giọt gianh giáp tường bếp + vệ sinh nhà ông Đến. Là phần giáp ranh giữ hai thửa đất 35 và 36 tờ bản đồ số 04 hệ bản đồ năm 1994 thuộc UBND xã Vĩnh Quỳnh – Thanh Trì – Hà Nội”
(Trên thực tế, vì chúng tôi đang quản lý và sử dụng phần đất ấy nên không phải là đòi quyền sử dụng đất mà chúng tôi yêu cầu nhà ông Đến phải phá dỡ mái ngói chờm lên trên móng nhà tôi để chúng tôi xây thân nhà).
Căn cứ vào bản án phúc thẩm, Quyết định thi hành án số 12/QĐ-CD-THA ngày 3/10/2006 của Thi hành án huyện Thanh Trì (nay là chi cục thi hành án Thanh Trì) chỉ ghi khoản phải thi hành án là tôi phải nộp án phí 288000 đồng.
Trong quyết định số 09/QĐTHA ngày 19/10/2006 của THA Thanh Trì về việc chuyển giao cho UBND xã trực tiếp đôn đốc THA cũng ghi như thế.
Điều này phù hợp với quyết định của bản án phúc thẩm.
Tôi đã nộp xong án phí, tức là thực hiện xong quyết định thi hành án trên vào ngày 16/1/2007.
Thế rồi ngày 14/8/2007 tức là gần 1 năm sau, Trưởng THA Thanh Trì lại ra tiếp một quyết định thi hành án thứ 2, số 394/QĐ-TDYC.THA, khoản phải thi hành ghi theo quyết định của bản án phúc thẩm là:
“Bác yêu cầu của vợ chồng ông Nguyễn Tường Thụy, bà Phạm Thị Lân đòi vợ chồng ông Vũ Xuân Đến và bà Trần Thị Thuận quyền sử dụng 1,56 m2 đất (rộng 0,2m x 7,7m dài) phần giọt gianh giáp tường bếp + vệ sinh nhà ông Đến. Là phần giáp ranh giữ hai thửa đất 35 và 36 tờ bản đồ số 04 hệ bản đồ năm 1994 thuộc UBND xã Vĩnh Quỳnh – Thanh Trì – Hà Nội”
Căn cứ vào quyết định thi hành án thứ 2 này, Chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng ra 2 giấy báo tự nguyện thi hành án số 02/THA ngày 30/8/3007 và số 03/GB-THA ngày 20/11/2007. Nội dung phải thi hành cũng ghi như bản án và quyết định thi hành án:
“Bác yêu cầu của vợ chồng ông Nguyễn Tường Thụy, bà Phạm Thị Lân đòi vợ chồng ông Vũ Xuân Đến và bà Trần Thị Thuận quyền sử dụng 1,56 m2 đất (rộng 0,2m x 7,7m dài) phần giọt gianh giáp tường bếp + vệ sinh nhà ông Đến. Là phần giáp ranh giữ hai thửa đất 35 và 36 tờ bản đồ số 04 hệ bản đồ năm 1994 thuộc UBND xã Vĩnh Quỳnh – Thanh Trì – Hà Nội”.
Đây là một điều rất lạ của một quyết định thi hành án: không nói người thi hành phải làm gì. Hai giấy báo tự nguyện THA trên cũng ghi như thế nhưng chấp hành viên Hằng một mực yêu cầu tôi phải giao phần đất ông Đến đòi cho nhà ông ta. Bà ta lý sự rằng tòa bác đơn của tôi tức là công nhận cho bên kia.
Tôi nhiều lần phân tích rõ cho bà Hằng biết, ngay cả trường hợp tòa công nhận cho bên kia thì tôi cũng không có nghĩa vụ phải giao nếu tòa không quyết định tôi phải giao. Tôi yêu cầu ghi rõ khoản phải giao đất vào quyết định thi hành án và thông báo thi hành án để tôi biết yêu cầu tôi phải làm gì nhưng họ không chịu ghi.
Trong suốt mấy tháng sau đó, chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng khi thì đến nhà tôi, khi thì mời tôi vào UBND xã, khi thì mời tôi đến cơ quan thi hành án để thuyết phục tôi tự nguyện giao đất cho nhà ông Đến. Trong những lần ấy, tôi đều yêu cầu ghi lời họ vào quyết định thi hành án để tôi có cơ sở thi hành hay khiếu nại nhưng họ vẫn không dám ghi.
Chính vì không có nội dung phải thi hành những gì, chỉ ghi theo bản án nên tôi không khiếu nại quyết định thi hành án và hai thông báo thi hành án nói trên.
Thế rồi, mặc dù quyết định của tòa phúc thẩm cũng như quyết định thi hành án không ghi nhưng cuối cùng, bà Hằng vẫn liều lĩnh ra quyết định cưỡng chế, ký ngày 29/11/2007. Lần này thì bà Hằng buộc phải ghi vào cái điều mà bà ta né tránh mãi không dám ghi vào văn bản là buộc nhà tôi phải giao cho nhà ông Đến phần đất nhà ông Đến đòi (trong khi tôi và chủ cũ vẫn quản lý, sử dụng từ trước năm 1993).
Nhận được quyết định này, tôi lập tức khiếu nại nay. Nhưng việc khiếu nại tố cáo trước và sau khi cưỡng chế không phải là việc tôi trình bày ở đây.
Ngày 7/12/2007, một lực lượng công an, đội thi hành án gồm 44 người (theo thông báo cưỡng chế) do Cao Thị Minh Hằng cầm đầu đến phá tường do nhà ông Vũ Xuân Đến xây từ trước để mở lối phá nhà tôi.
Họ đục phá móng bê tông cốt thép theo chiều rộng 0.2m, chiều dài 7,7 mét, khoét vào chân tường, làm chảy cát nền rồi đục dọc lên phần thân tường làm hư hai nghiêm trọng đến kết cấu nhà tôi, ảnh hưởng đến tuổi thọ và mỹ quan công trình
Nhà tôi xây theo giấy phép do UBND huyện Thanh Trì cấp, theo trích lục bản đồ lưu ở địa chính, khi đó đang trong giai đoạn hoàn thiện. Khi xây, tôi chấp hành theo bản án, phần móng xây hết đất như trước, khi lên tường, tôi xây thu vào để tránh chạm vào phần mái nhà ông Đến thò sang.
Để chạy tội cho bà Hằng, Thi hành án Thanh Trì đã tìm cách để có văn bản giải thích của thẩm phán Nguyễn Thái Sơn Tòa án ND Tp Hà Nội ký ngày 16/12/2008, nghĩa là sau bản án phúc thẩm ra ngày 24/7/2006 hai năm 4 tháng và chỉ trước khi Cục THA Hà Nội trả lời tôi có 15 ngày. Điều đó có nghĩa là khi chi cục THA Thanh Trì chạy được công văn này thì Cục THA Hà Nội mới dám trả lời tôi.
Công văn này viết một cách bừa bãi rằng “Ông Thụy, bà Lân không có quyền sử dụng đối với 1,54 m2 phần giọt gianh giáp tường bếp + vệ sinh nhà ông Đến. Ông Đến, bà Thuận tiếp tục quản lý sử dụng phần đất này theo qui định của pháp luật về đất đai”. Điều này chứng tỏ ông Sơn không đọc kỹ bản án hoặc cố tình vờ không hiểu. Trên thực tế, phần đất này nhà tôi và chủ cũ sử dụng để xây nhà từ trước đến nay, nhà bên kia khi xây tường bao đã trừ phần đất ấy ra. Họ chưa sử dụng một ngày nên không thể nói “tiếp tục sử dụng”.
Tôi đã lên Tòa án ND Tp Hà Nội để đòi công văn giải thích bản án này. Sau rất nhiều khó khăn, kiên trì đấu tranh, cuối cùng họ buộc phải giao cho tôi. Lập tức, tôi có đơn vạch rõ những sai trái của công văn này và yêu cầu hủy nó. TANDTP Hà Nội đã chuyển đơn của tôi lên TAND tối cao nhưng Tòa án tối cao chưa trả lời.
Mặc dù vậy, văn bản có tính pháp lý cao hơn vẫn là bản án phúc thẩm chứ không thể căn cứ vào mấy lời giải thích thiếu trách nhiệm của ông Nguyễn Thái Sơn.
Mặt khác, chấp hành viên chỉ có thể cưỡng chế nếu bản án có quyết định buộc người này phải giao cho người kia một cách cụ thể, kể cả trường hợp tòa công nhận của người này hay của người khác.
Kết luận: Việc sai phạm của chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng đã rõ, không thể chỗi cãi, biện minh.
Từ việc ghi chung chung trong quyết định thi hành án theo như bản án, không dám ghi cụ thể, từ việc đã được tôi phân tích rõ quyết định của tòa phúc thẩm cho đến việc ra quyết định cưỡng chế cụ thể (mặc dù tôi chỉ là dân thường), chứng tỏ chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng đã cố tình và quyết tâm đến cùng tìm mọi cách phá nhà tôi và chiếm tài sản (quyền sử dụng đất) giao cho nhà khác.
IV. Những căn cứ pháp lý cho việc yêu cầu khởi tố:
1. Pháp lệnh thi hành án 2004 (Thời điểm xảy ra sự việc chưa có Luật thi hành án)
Điều 67 Xử lý vi phạm
2. Bộ luật dân sự:
Điều 611 Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xúc phạm.
3. Bộ luật hình sự:
Điều 3: Nguyên tắc xử lý
Điều 296: Tội ra quyết định trái pháp luật
Điều 143: Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Điều 137: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Điều 280: Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Điều 282: Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ
V. Yêu cầu:
- Yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì khởi tố trách nhiệm hình sự đối với chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng, Chi cục thi hành án Thanh Trì theo điều 296, 143, 137, 280, 282 của Bộ luật hình sự.
- Buộc chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng khôi phục lại toàn bộ hiện trạng như trước khi cưỡng chế: hàn thép và đổ lại bê tông phần chân móng, xây lại phần tường bị đục phá, trả lại phần đất trước đây tôi đang sử dụng.
- Buộc chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng bồi thường tổn thất về tinh thần mà gia đình tôi phải gánh chịu: sự sợ hãi gây nên cho chúng tôi và các con tôi, làm mất uy tín, danh dự của tôi và gia đình tôi. Mức cụ thể do hai bên thỏa thuận hoặc theo qui định của luật.
VI. Tài liệu kèm theo:
1. Sơ đồ hiện trạng do UBND xã Vĩnh Quỳnh làm ngày 29/10/2005.
2. Bản xác nhận quyền SD đất ngày 22/01/2007 ở do UBND xã Vĩnh Quỳnh xác nhận.
3. Giấy phép xây dựng do UBND huyện Thanh Trì cấp ngày 11/7/2007.
4. Giấy phép xây dựng bổ sung do UBND huyện Thanh Trì cấp ngày 11/7/2007.
5. Bản án sơ thẩm số 07/2006/DS-ST ngày 17/4/2006 của TAND huyện Thanh Trì.
6. Bản án phúc thẩm số 167/2006/DSPT ngày 24/7/2006 của TAND Tp Hà Nội.
7. QĐ thi hành án số 12/QĐ-CD.THA 3/10/2006 của THA Thanh Trì.
8. Quyết định số 09/QĐTHA ngày 19/10/2006 của THA Thanh Trì về việc chuyển giao cho UBND xã trực tiếp đôn đốc THA.
9. QĐ THA thứ 2 số 394/QĐ-TDYC.THA ngày 14/8/2007 của THA Thanh Trì.
10. Giấy báo tự nguyện THA số 02/THA ngày 30/8/2007 do chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng ký.
11. Giấy báo tự nguyện THA số 03/GBTHA ngày 20/11/2007 do chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng ký.
12. QĐ cưỡng chế giao quyền sử dụng đất số 01/QĐ-THA ngày 29/11/2007 do chấp hành viên Cao Thị Minh Hằng ký.
13. Thông báo cưỡng chế THA số 34/TB/THA ngày 30/11/2007.
14. Công văn giải thích bản án số 971/2008/TA-DS của TANDTPHN do thẩm phán Nguyễn Thái Sơn ký.
Tất cả 14 tài liệu này là bản photocopy.
Nếu Viện KS yêu cầu thêm tài liệu nào thì tôi sẽ cung cấp tiếp.
Người làm đơn
ĐÃ KÝ
Nguyễn Tường Thụy