Huy Cận: ”Cho đến bây giờ mặt vẫn chau”!?

”Huy Cận: Cho đến bây giờ mặt vẫn chau”!?

 Lê Xuân Quang


.
Thấm thoát đã 50 năm trôi đi kể tù mùa xuân năm 1963 sau khi đến thăm chùa Tây Phương trỏ về rồi thi phẩm Các vi La hán chùa Tây phương ra đời, ‘’những câu hỏi lớn’’ mà thi sĩ đặt ra vẫn’’không lời đáp’’… Rồi 42 năm sau nữa (2005), ông vội vã trở về hòa cùng vũ trụ bao la .

8 năm trôi đi (2005 – 2013), Huy Cận , nhà thơ lớn – cây đại thụ của nền thi ca Việt Nam thế kỉ 20 đã trở thành cát bụi, về với vũ trụ bao la, làm’’Vì tinh tú’’ sang chói trên bầu trời văn chưong nước Việt, nối tiếp giọng mà 73 năm trước (1940) đã từng cất lên: Vũ Trụ Ca (**).

Ông tên thật là Cù Huy Cận sinh (19.2.2012) tại Ân Phú, Hương Sơn, Hà Tĩnh . Qua những tác phẩm để lại cho kho tàng văn học nước nhà, có thể xem, ông là một trong số những nhà thơ, có ảnh hưởng lớn đến nền thi ca Việt Nam trong 65 năm của thế kỉ 20 , (tính từ lần đầu tiên xuất hiện tập thơ Vũ Trụ Ca 1940 đến lúc mất 2005) (1). Ngoài các tác phẩm đồ sộ, với 2 thi phẩm trác việt như Tràng Giang và Các vị La hán chùa Tây Phương, ông còn cùng những ‘’Tinh tú’’ trong Thất tinh của nhóm Tự lực văn đoàn: Xuân Diệu, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Tế Hanh… tham gia, đóng góp cổ vũ cho Phong trào Thơ Mới nhằm khẳng định vị thế của một dòng thơ, mà người đọc đương thời còn chưa quen, một số Văn Nghệ Sĩ – phản đối…

Đã có qúa nhiều bài viết ca ngợi thi tài của Huy Cận. Đặc biệt viết về bài thơ Tràng Giang in trong tập Lửa Thiêng (1940 – 1942). Hầu như các bài viết đều thống nhất: Tràng Giang đẹp, hay mang ý nghĩa thời sự, đạt được tính khái quát về thời đại mà vẫn mang vẻ cổ điển trữ tình.

Tràng Giang nghĩa đen là Sông dài, nhưng người đọc nhận ra ẩn trong đó ’’sông dài’’ chính là Dòng đời của con người. Tác gỉa đứng bên lề Tràng Giang, quan sát cảnh, vật , con người bị ’’dòng đời’’ – cuốn trôi…

Nếu cách nay hơn nửa thế kỉ, ai đã từng đứng trên bờ sông Hồng vào một buổi chiều thu (khỏang đầu tháng 7, giữa tháng 8) – đoạn từ bến Chèm xuống dưới Phà đen (nơi giòng sông phân nhánh), có rất nhiều cồn cỏ, bãi nương – cũng sẽ có cảm gíac như Thi sĩ Huy Cận. Thời gian đó, trên thượng nguồn thường có những trận mưa lớn (dân ta gọi mưa nguồn). Nước từ trên rừng chảy xuống khe suối, cuốn tất cả những gì ngăn, ngáng: Củi khô, xác người (2), xác thú vật, cụm bèo Tây (lục bình) kết bè trên sông suối – trôi ra sông cái. Những cơn lũ dữ dội của Hồng Hà cuồn cuộn chảy, ngầu đỏ phù sa. Trên giòng trôi, những ’’củi một cành khô’’ – quăng quật, xoay tròn khi gặp vùng nước xoáy (do giòng chảy tạo ra). Qua bút pháp tả thực, người đọc hình dung, mường tượng: Dòng chảy – Chính là dòng đời, những vật trôi -’’củi, cành khô, cụm bèo’’ – như những con người, nhóm người – bị sức mạnh của thiên nhiên, của xã hội nhiễu nhương cuốn đi mà không thể cuỡng lại. Tác gỉa phản ánh nỗi niềm tâm sự, ưu tư của mình trước thời cuộc nhưng đã truyền cảm cho người đọc, bắt trí tưởng tượng của họ bùng phát, liên tưởng…

Tràng giang mang vẻ đẹp cổ điển, nhưng tràn đầy chất hiện đại, bởi cấu trúc, ngôn từ và thi tứ. Cả bài gồm 4 khổ thơ thất ngôn. Trong đó, nhặt ra khá nhiều ngôn từ ‘’cổ’’: Buồn điệp điệp (trùng trùng)… gió đìu hiu… sầu chót vót… bóng cô liêu… dờn dợn… hoàng hôn, nhớ nhà. Những ngữ điệu cổ, luyến lắy – làm ta liên tưởng tới 3 bài thơ nổi tiếng của Nữ sĩ tài danh Bà Huyện Thanh Quan (BHTQ(3): Thăng Long Hoài Cổ, Chiều Hôm Nhớ Nhà, Qua Đèo Ngang. Người đọc nhận ra Tràng Giang có cùng mô típ. Huy Cận đã kế thừa thật sáng tạo vốn cổ. Đặc biệt, thi tứ Tràng Giang rất giống Chiều Hôm Nhớ Nhà (CHNN):

CHIU HÔM NH NHÀ


Trờ
i chiu bng lng bóng hoàn hôn
Tiế
ng c xa đưa ln trong đn
Gác mái Ngư
ông, v vin ph
Gõ sừ
ng Mc t, li cô thôn
Ngàn mai gió cuố
n chim bay mi
Dặ
m liu sương sa, khách bước dn
Kẻ
chn Chương đài (*), Người l th
Lấ
y ai mà k ni hàn ôn.
(Bà Huyệ
n Thanh Quan)

(Theo tích cổ Trung Hoa: Chương đài là tượng trưng địa danh – nơi vợ của người Lữ Thứ – đang sống (…).

Chiều Hôm Nhớ Nhà – là tâm sự của người Lữ khách khi chiều về – vẫn đang rong ruổi trên đường, nhìn khung cảnh ’’quê người’’… nhớ người thân yêu ’’quê mình’’ trong nỗi buồn man mác, cô quạnh…

Tràng Giang – cũng là tâm sự của Thi sĩ khi chiều về, đứng nhìn giòng nước cuồn cuộn chảy, nhớ nhà, nhớ người thân yêu, suy tư về con người trước thời cuộc xoay vần, trôi nổi với nỗi buồn mênh mang, da diết ’’dờn dợn’’.Cả bốn bài thơ: Tràng Giang – Thăng Long Hoài Cổ – Chiều Hôm Nhớ Nhà(CHNN) – Qua Đèo Ngang, đều có cùng cấu trúc, diễn đạt một ý tưởng:

Cnh bun khiến người cũng bun.
Cả
nh mà đìu hiu – người đâu có th vui.

Người buồn, cảnh cũng sẽ buồn theo:’’Người bun cnh có vui đâu bao gi (Kiu)’’ .

Những bài thơ tuân thủ nghiêm ngặt quy tắc của thơ Đường luật với 4 ràng buộc: Đề – Thực – Luận – Kết (4). Tràng Giang tuy không phải là thể thơ Thất ngôn, Bát cú (bẩy chữ, tám câu), nhưng nó có 16 câu bẩy chữ, chia làm 4 khổ thơ. Cứ mỗi khổ, 4 câu – làm vai trò của 1 trong 4 ràng buộc của Thất ngôn Bát cú. Đáng chú ý những câu Luận – Kết của cả 4 bài:

Ca – Chiu Hôm Nh Nhà:

Kẻ
chn Chương đài, Người L th
Lấ
y ai mà k ni hàn ôn.
Thăng Long Hoài Cổ
:
Nghìn năm gươ
ng cũ soi kim c
Cả
nh y, người đây lung đan trường.
Qua Đèo Ngang:
Dừ
ng chân đng li: Tri, non , nước
Mộ
t mnh tình riêng ta vi ta
Còn Tràng Giang:
Lớ
p lp mây cao đùn núi bc
Chim nghiêng cánh nhỏ
bóng chiu sa
Lòng quê dờ
n dn vi con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ
nhà.

Tuy kế thừa thi tứ của cổ nhân, nhưng sự kế thừa đã được phát triển, nâng lên. Huy Cận chọn, xử dụng ngôn từ diệu nghệ để diễn đạt tâm tình khiến người đọc đồng cảm: Từ chủ đề đến cấu trúc toàn bài, kết nối giữa ’’Tân’’ và ’’Cổ’’ – hòa trộn một cách tài tình, tạo ra sắc thái riêng theo phong cách ’’Tân Cổ Giao Duyên’’: Cổ mà không cũ, gần mà vẫn có khoảng cách, giống mà không sao y nhau. Tràng Giang nóng bỏng tính thời sự của thời đại, hiện thực, sâu rộng, khái quát hơn Chiều Hôm Nhớ Nhà.

Thời cuộc biến đổi, chiến tranh thế giới thứ 2 ập đến (1941), cũng như bao văn nghệ sĩ cùng trang lứa theo tiếng gọi của non sông ’’Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu’’, Huy Cận tham gia cách mạng rồi đi kháng chiến. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946 – 1955) ông ít làm thơ. Các bài thơ của ông làm trong thời gian này, không gây được tiếng vang. Phải đợi đến năm 1958, Huy Cận cho xuất bản tập Trời Mỗi Ngày Lại Sáng. Trong đó khá nhiều bài hay. Đặc biệt bài Anh Tài Lạc. Bài thơ ca ngợi người công nhân mỏ than Cẩm Phả chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bị Pháp bắt, xử bắn… Theo thông lệ, tác giả thường làm người tường thuật sự tích anh hùng của đối tượng, giãi bầy cảm xúc của mình về đối tượng được quan tâm, miêu tả.. Nhưng ở Anh Tài Lạc, Huy Cận đưa anh vào làm người trực tiếp tường thuật lại hành động anh hùng của mình dù là người đã chết, anh tự kể về mình. Bằng thể thơ tự do (trước đó, Huy Cận thường xử dụng thể thơ Thất ngôn hoặc Lục bát):

Tôi là Tài Lc
Tôi đã chế
t ri
Tôi chế
t ngày tháng chp chiu hai mươi
Ngự
c thng 5 ln xuyên đn
Gió rét lùa vào lỗ
bn…
Chúng bắ
n tôi ngày hôm y phát lương
Phát gạ
o vay cho các công trường

C thế, lit sĩ Tài Lc t làm sng li giây phút anh hùng ca mình khiến người đc xúc đng… Mãi đon kết, tác ga mi trc tiếp giãi bày cm xúc, gi ti hương hn người đã khut nhng li thương tiếc, tôn vinh.

Mùa xuân năm 1963 – như mi người dân thường, thi sĩ đến thăm chùa Tây Phương tnh Sơn Tây (nay thuc ngoi vi Hà Ni). Chùa Tây Phương có rt nhiu tượng pht La Hán. Điu đc đáo: Nhng ngh nhân vô danh đã tc các tượng Pht tht sng đng đqt đnh cao ngh thut điêu khc: V nào ra v y, t tính cách, khuôn mt, dáng ngi và s tích – không v nào ging v nào. Nhìn tượng, ta cm thy như đó là nhng con người đang sng ngoài đi, vào đây ngi, ch không phi bc tượng bng g vô tri vô gíac.

Khác hn mi người khi chiêm ngưỡng tượng, Huy Cn có cm quan sâu sc khác thường: Ông nhìn tng pho tượng, nghin ngm, suy tư – ’’đc’’ tâm tư tượng qua nét mt, tư thế ngi… rút ra nhng kết lun đ liên tưởng v Đo – Đi, v Pht pháp – Chúng sinh ri chuyn hóa thành triết lý, đin hình hóa, ‘’thơ hóa’’ và Các V La Hán Chùa Tây Phương (CVLHCTP) ra đi. Bài thơ dài 60 câu chia làm 15 kh, th Tht ngôn. T bc tượng Pht theo s tích: Nhn ăn mà mc, thân gy xác ve – ông liên tưởng, đt câu hi:

Có v phong trn chân vi tay
Có chi thiêu đố
t tm thân gy
Trầ
m ngâm đau kh sâu vòm mt
Tự
by ngi yên cho đến nay.

Mi v La Hán mi v: Người vui, người gin, người bun… có người ngi yên trong tĩnh lng… tt c đu được Huy Cn nm bt thn thái, phân tích, đt ra nhng vn đ, dường như Tượng và ông cùng bc xúc:

Có thc trên đường tu đến Pht
Trầ
n gian tìm ci áo trm luân
Bấ
y nhiêu qun qui run ln chót
Các vị
run theo lòng chúng sinh?
Và, thi sĩ lạ
i t tr li thay Pht:
Mộ
t câu hi ln không li đáp.
Cho đế
n bây gi mt vn chau.

Thi Sĩ cùng trăn tr:

Đt rut cha ông trong cái thưở
Cuộ
c sng dm chân hoài mt ch
Bao nhiêu hy vọ
ng thúc bên sườn
Héo tự
a mm non thiếu ánh dương

Ni đau ca Chúng sinh khiến Tượng cũng đng cm th hin rõ trong ánh mt, khuôn mt, Thi sĩ bng tnh trước hin thc:

Hoàng hôn thế k ph bao la
Sờ
song cha ông tìm li ra
Có phả
i thế mà trên mt tượng
Nử
a như khói m, na sương tà.

Có th ví Tràng Giang ch là ngôi bit thư my tng lu, còn CVLHCTP chng nhng là tòa lâu đài đ s nguy nga thi sĩ xây lên cho s nghip thi ca ca mình, mà còn là công trình to ln ca mt dòng Thi ca ca Vit Nam đương đi. Các V La Hán Chùa Tây Phương đt được mi yếu t ca tác phm gía tr: Ch đ, t thơ, ngôn ng, tính thi s, tính khái qúat thi đi, s tng hp, hòa trn đến nhun nhuyn gia c đin và hin đi…
Thế nhưng điu đáng đ hu sinh suy tư: Dường như thi sĩ tri lòng mình bng nhng d báo vô cùng chính xác thông qua nhng câu thơ khiến người đc hin thi phi trăn tr, ng ngàng đến sng st:

Mt câu hi ln không li đáp.
Cho đế
n bây gi mt vn cháu.

hoc:

Đt rut cha ông trong cái thưở
Cuộ
c sng dm chân hoài mt ch
Bao nhiêu hy vọ
ng thúc bên sườn
Héo tự
a mm non thiếu ánh dương

Hay:

Hoàng hôn thế k ph bao la
Sờ
song cha ông tìm li ra
Có phả
i thế mà trên mt tượng
Nử
a như khói m, na sương tà?

Thi sĩ hoàn thành bài thơ lúc cu con trai Cù Huy Hà Vũ mi cp sách ti trường (6 tui – 1957 – 1963). Ông đâu ng 47 năm sau ( đ tui 53 (năm 2010 – năm xung tháng hn), con ông do tiếp tc kế tha s nghip mà ông đi chưa ti đích: Đt tiếp câu hi ca ông và cũng như ông, và t tiên – anh li ’’s song tìm li ra’’… Tiếc thay con ông đã b ngăn cn và phi tr gía cho hành đng dũng cm ca người trí thc chân chính , thông minh – mun tiếp ni theo cha ông , thc hin li cha ông tìm li ra cho t quc mà anh yêu qúy. Thế nhưng anh không được chp nhn đ ri phi tr gía đt cho hành đng ca mình: Nhn ly s đy i trong tù ngc

Huy Cận viết CVLHCTP cách đâyđã trọn 49 năm (1963-2012).

Ông đã về với Hoàn Vũ để ca tiếp bài Vũ Trụ Ca mà ông đã xướng lên từ năm 1940. Đọc lại CVLHCTP, chúng ta cảm thấy như nhà thơ đang hiển hiện tại cuộc đời này, đang tâm tình cùng độc gỉa… tiếp tục chất vấn những tượng Phật… thúc dục con trai mình’’hữu trách với quốc gia’’! Bức xúc của Thi sĩ 49 năm trước, làm người đọc hôm nay đồng cảm, trăn trở, như lời‘’thúc ép –‘’bắt’’họ cùng chúng sinh tìm lối ra, trước các bế tắc nổi cộm của hiện tại và khả năng trong tương lai …
Huy Cận đã đi vào cõi vĩnh hằng nhưng để lại cho đời những vần thơ trác tuyệt. Người đọc cảm thấy như ông vừa viết xong hôm qua, hôm kia. Ngọn Lửa Thiêng được ông thắp lên từ hơn 70 năm trước đã đánh thức Các Vị La Hán Chùa Tây Phương (…). Bây giờ, hôm nay – các thế hệ người đọc Việt nối tiếp – đọc lại thơ ông, như được ngọn lửa ấy hun đúc làm bừng lên đến cháy bỏng tâm can…
Thơ Huy Cận kế thừa, sáng tạo ra trường phái Tân Cổ Đìển. Chất ‘’Tân’’ và ‘’Cổ’’ hòa quyện, làm người đọc, mẫn cảm, hài hòa, thỏa mãn – trong qúa trình đi từ cảm xúc đến nhận thức. Sau Tràng Giang – 23 năm (1940 – 1963) – Tân Cổ Điển lại được chính ông tiếp tục phát triển, nâng lên và… thành công! Đỉnh cao của sự thành công chính là Các Vị La Hán Chùa Tây Phương!
Chúng ta cùng đọc bài thơ bất hủ của Huy Cận:

CÁC V LA HÁN CHÙA TÂY PHƯƠNG

Các v la hán chùa Tây Phương
Tôi đ
ến thăm v, lòng vn vương
Há ch
ng phi đây là x pht
Mà sao ai n
y mt đau thương?
Đây v
phong trn, chân vi tay
Có chi thiêu đ
t tm thân gy
Tr
m ngâm đau kh sâu vòm mt
T
by ngi yên cho đến nay
Có v
mt giương mày méo xch
Trán nh
ư ni sóng bin luân hi
Môi cong chua chát tâm h
n héo
Gân v
n bàn tay mch máu sôi.
Có v
chân tay co xếp li
Tròn xoe t
a th chiếc thai non
Nh
ưng đôi tai rng dài ngang gi
C
cuc đi nghe đ chuyn bun…
Các v
ngi đây trong lng yên
Mà nghe giông bão n
i trăm min
Nh
ư t vc thm đi nhân loi
Bóng t
i đùn ra trn gió đen.
M
i người mt v mt con người
Cu
n cun đau thương chy dưới tri
Cu
c hp l lùng trăm vt vã
T
ượng không khóc cũng đ m hôi.
M
t cúi, mt ngiêng, mt ngonh sau
Quay theo tám h
ướng hi tri sâu
M
t câu hi ln: Không li đáp!
Cho đ
ến bây gi mt vn chau.
Có th
c trên đường tu đến Pht
Tr
n gian tìm ci áo trm luân
B
y nhiêu qun qua run ln chót
Các v
run theo lòng chúng sinh?
Nào đâu, bác th
c – xưa đâu?
S
ng li cho tôi hi mt câu
Bác t
c bao nhiêu hình kh hnh
Th
t chăng chuyn Pht k cho nhau?
Hay b
y nhiêu hn trong giông bão
Bãy nhiêu tâm s
by nhiêu đi
Là cha ông đó b
ng xương máu
Đã kh
không yên c dáng ngi.
Cha ông năm tháng đè l
ưng nng
Nh
ng bn đương thi ca Nguyn Du
Nung n
u tâm can, vò võ trán
Đau đ
i có cu được đi đâu.
Đ
t rut cha ông trong cái thu
Cu
c sng dm chân hoài mt ch
Bao nhiêu hy v
ng thúc bên sườn
Héo t
a mm non thiếu ánh dương.
Hoàng hôn th
ế k ph bao la
S
song cha ông tìm li ra
Có ph
i thế mà trên mt tượng
N
a như khói m, na sương tà.
Các v
La hán chùa Tây Phương
Hôm nay xã h
i đã lên đường
Tôi nhìn m
t tượng dường tươi li
Xua bóng hoàng hôn, t
n khói sương.
Cha ông yêu m
ến thi xưa cũ
Tr
n tri đau thương bng hóa gn
Nh
ng bước mt dn trong th g
V
đây muôn vn dm đường xuân.

H. C

(Chùa Tây Phương 1963)
——————————————
Ghi Chú:
(*) – Tên hai tác phẩm nổi tiếng của Thi sĩ Huy Cận.
(**) – Theo Wikipedia: Trước 1945 : Kinh cầu tự (1942, văn xuôi triết lí) , Vũ trụ ca (thơ đăng báo 1940-1942).
Sau tháng 8 năm 1945;Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Hai bàn tay em (thơ thiếu nhi, 1967), Những năm sáu mươi (1968), Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973), Họp mặt thiếu niên anh hùng (1973), Những người mẹ, những người vợ (1974), Ngày hằng sống ngày hằng thơ (1975), Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984)…
(1) . Tư liệu này rút trong Thi Nhân Việt Nam, in năm 1942 do đồng tác gỉa TNVN – Nguyễn Đức Phiên (em ruột Hoài Thanh) – xuất bản.
(2). Vào mùa nước lũ hàng năm, trên giòng Hồng Hà thường có những thây người vô thừa nhận. Ở qũang phía trên, đầu thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định – có một mỏm đất, (do giòng chảy tạo ra). Cứ như được thần linh xui khiến, các xác người trôi đến khu vực này đều dạt vào bờ… Bà con địa phương thương xót, vớt lên chôn cất ngay tại khoảnh đất sát cạnh chân đê, coi việc này là làm phúc để các thây ma được mồ yên mả đẹp, chóng siêu thoát…
(3). Theo Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam : Bà tên thật là Nguyễn Thị Hinh (Thế kỉ 19 , thời Minh Mạng). Bà Huyện Thanh Quan là bút danh lấy từ nơi chồng bà làm Tri Huyện Thanh Quan, ngày nay là huyện Đông Hưng – Thái Bình.
Bà để lại cho hậu thế 7 bài thơ Nôm, thể Đường Luật – Thất ngôn Bát cú (…) Trong đó – theo đánh gía của dư luận: Nổi tiếng, lừng danh là 3 bài: Thăng Long Hoài Cổ, Chiều Hôm Nhớ Nhà, Qua Đèo Ngang.
4). Thơ Thất ngôn, Bát cú – có những quy chuẩn rất khắt khe, cấu trúc phức tạp. Toàn bài Đường luật có 8 câu, mỗi câu 7 chữ, phân chia như sau:
Câu thứ 1 và 2: Đề (Thừa đề, Phá đề – nêu vấn đề).
Câu thứ 3 và 4: Thực (a) – hai câu đối nhau (vấn đề – a).
Câu thứ 5 và 6: Thực (b) – hai câu tiếp tục đối nhau (vần đề – b).
Câu thứ 7: Luận ( bàn vấn đề).
Câu thứ 8: Kết (kết luận vấn đề).
Ngoài ra, trong từng câu, các từ ở vị trí thứ 2, thứ 5 và thứ 7 – còn phải theo quy tắc âm luật… (Thanh Không – Thanh Bằng -Thanh Trắc)…
Berlin – mùa xuân Nhâm thin – 2012

Tác giả gửi cho NTT blog

 

7 thoughts on “Huy Cận: ”Cho đến bây giờ mặt vẫn chau”!?

  1. Pingback: Huy Cận: ”Cho đến bây giờ mặt vẫn chau”!? »

  2. Pingback: Tin thứ Hai, 04-02-2013 « BA SÀM

  3. Pingback: Tin thứ Hai, 04-02-2013 | Dahanhkhach's Blog

  4. Pingback: NHẬT BÁO BA SÀM : TIN THỨ HAI 4-2-2013 « Ngoclinhvugia's Blog

  5. Pingback: Tin thứ Ba, 05-02-2013 | wtftjopv

  6. Pingback: Tin thứ Hai, 04-02-2013 | wtftjopv

Đã đóng bình luận.