Archive | 04/12/2012

Lưu Quang Vũ – vở kịch chưa thể hạ màn

ĐỖ TRƯỜNG


Gia đình Lưu Quang Vũ – Từ trái sang: Lưu Quỳnh Thơ, Lưu Tuấn Anh, nhà thơ Xuân Quỳnh, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ, Lưu Minh Vũ – Ảnh Internet

Tôi có ông bạn, quen nhau từ cái thuở làm chung trong cái lò giết mổ heo của thành phố Leipzig. Sát sinh nhiều nên bị ám ảnh, sau khi nhà máy giải thể, hắn đã chuồn về quê gõ mõ tụng kinh, tầm sư học nghề. Năm sau quay lại Đức, hắn giở trò bói toán, tử vi lá số. Đến chơi, thấy tôi viết về nhà thơ Lưu Quang Vũ, hắn chép miệng, tiếc cho một tài năng lớn đang ở độ chín thì phải ra đi. Rồi hắn quả quyết, nếu như Lưu Quang Vũ lấy vợ muộn hơn một chút thôi, số phận chắc chắn sẽ đổi khác. Không hiểu hắn móc đâu ra ngày giờ sinh của Lưu Quang Vũ và phán kiểu vuốt đuôi:Tuổi Mậu Tý, sinh vào giờ này chắc chắn là người có tài, tâm hồn trong sáng, nhưng lại có trái tim yếu đuối dễ vỡ… Tôi không tin cái thằng thầy bói thiến heo này. Nhưng không hiểu sao, chỉ được tiếp xúc với Lưu Quang Vũ một lần và đọc thơ của ông, tôi cũng có cảm giác như vậy.
Chú Phạm Quang Nhuận, phụ trách phòng hộ khẩu thành phố Hà Nội từ sau năm 1954, thân thiết với gia đình tôi từ mấy chục năm trước. Chú Nhuận bị bệnh hen, nên tôi thường xuyên mua thuốc mang đến cho chú. Tôi đã gặp nhà thơ Lưu Quang Vũ cũng trong một lần đến thăm chú như vậy, ở khu tập thể Thành Công. Chú Nhuận giới thiệu tôi cho anh và chỉ vào anh bảo, đây cũng là ông cháu, nhà thơ Lưu Quang Vũ. Tôi đã nghe những câu chuyện đâu đó về chất lãng tử trong anh. Cứ tưởng anh phải ngầu ngầu, phủi phủi nhưng nhìn anh thấy rất thư sinh, nói năng nhỏ nhẹ với cái cười hiền khô. Tôi chưa đọc nhiều thơ của Lưu Quang Vũ, nhưng lúc đó anh đã bắt đầu nổi danh trên sân khấu kịch. Khi nhà thơ Lưu Quang Vũ về rồi, chú Nhuận kể, Lưu Quang Vũ khổ từ ngày còn ở bộ đội đến khi xuất ngũ về địa phương lại rắc rối vấn đề nhập lại hộ khẩu. Cuối cùng chú Nhuận phải làm lại từ đầu cho anh.
Quả thật, ngày đó hộ khẩu gắn liền với việc làm, tem phiếu lương thực thực phẩm. Mất nó chẳng khác gì bị tuyên án tử hình.
Có thể nói so với thế hệ các nhà thơ nhà văn cùng thời, Lưu Quang Vũ là người có nhiều thuận lợi nhất để tiếp cận và bước chân vào làng văn nghệ. Nếu không sinh ra trong một gia đình có truyền thống làm nghệ thuật và lớn lên trong cái (nôi) tập thể của các văn nghệ sỹ ngay giữa lòng Thủ Đô, chưa chắc Lưu Quang Vũ đã có tập thơ Hương Cây – Bếp Lửa in chung với Bằng Việt sớm như vậy.
Cùng thế hệ Lưu Quang Vũ cũng có nhiều người làm thơ khi còn ngồi trên nghế nhà trường rất hay như Nguyễn Trọng Tạo, Trần Mạnh Hảo … Nhưng do hoàn cảnh xuất thân từ gia đình nông dân ở những miền quê xa ngái nên họ bước vào làng văn muộn hơn mà thôi. Cho nên việc in ấn, bước chân vào làng văn sớm hay muộn chỉ là tài liệu tham khảo, chứ không nhất thiết là cơ sở đánh giá tài năng của người nghệ sỹ.
Với Lưu Quang Vũ, tôi đánh giá cao cái Tôi trong thơ ca của anh. Ngay trong lúc nghệ thuật vị nhân sinh phục vụ, minh họa đường lối lãnh đạo của Đảng được phát động rầm rộ thì Lưu Quang Vũ chỉ viết cho riêng mình trong cái nghệ thuật vị nghệ thuật đang bị bài bác. Do vậy kể từ khi xuất ngũ, thơ văn của ông ít xuất hiện trên truyền thông báo chí. Nhưng ông vẫn miệt mài viết, miệt mài sáng tác tặng và đọc cho bạn bè nghe trên những quán cóc vỉa hè. Lưu Quang Vũ có lẽ là hình ảnh, bằng chứng tiêu biểu nhất bác bỏ những ý kiến mang tính ngụy biện cho rằng các nhà văn lớn bị trói buộc nên chỉ còn đẻ ra được những tác phẩm mang tính xã luận, minh họa, khi ý trí và tài năng họ thật sự đã cạn.
Trong khi các nhà thơ cùng thời đang cùng nhau thi vị hóa chiến tranh, thì Lưu Quang Vũ viết rất thật về sự mịt mùng, tàn nhẫn của nó với tâm trạng của một người lính trẻ. Dẫu biết rằng cái thật đó mang đến cho anh nhiều hệ lụy:
“Chúng ta ra đi chiến tranh mùa đông 
Ta kịp biết gì đâu 
Vừa hết trẻ con đã thành người lính 
Cô bạn gái cánh tay trần rám nắng 
Ngực phập phồng thở mạnh đến lo âu 
Đừng nói với ta những lời hào nhoáng về chiến 
Tuổi trẻ ta đã qua, bạn bè ta đã chết 
Ta vượt qua bao đèo cao chót vót 
Bao điều nhà trường chẳng dạy ta 
Nghĩ lại giễu cười những giấc mộng tuổi thơ 
Giờ trong ta vui buồn đều nín lặng 
Một thế hệ cứng đi như thỏi sắt 
Nhưng xoáy ngầm vẫn cuộn ở lòng sông…”
(Những Bông Hoa Không Chết)
Là người rất trẻ, nhưng Lưu Quang Vũ đã có cái nhìn sâu sắc về chiến tranh. Với ông, cuộc chiến này không có kẻ thắng người thua, mà nó chỉ là tang thương và chết chóc:
“Bây giờ 
Hai đạo quân đã giết hết nhau 
Tiếng trống cuối cùng đã bặt 
Người ngựa đều ngã gục 
Chỉ còn con quạ xám đậu trên bờ..”
(Tưởng Tượng Về Một Bài Hát)
Cái nhìn nhân bản xuyên suốt trong thơ và đời Lưu Quang Vũ. Ngoài những cái cao thượng, cảm thông trong tình yêu, gia đình, bạn bè đã được nhiều người viết và nói đến. Ta còn thấy được sự đồng cảm yêu thương con người và sức mạnh vĩ đại của nhân dân nghèo cùng khổ bật lên qua bài Người Cùng Tôi:
“… Người mài mực cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô 
Quang Trung trên bành voi, Người cầm giáo xông lên phía trước 
Quang Trung lên làm vua, Người về nhà cày ruộng 
Bị lão Trương tuần bắt nạt cũng run…”
Và Lưu Quang Vũ cũng không ngần ngại xuống bút, vạch trần những nhân cách bẩn thỉu, đê tiện của những kẻ tưởng như là cao đạo:
“… Nhà văn xưa tôi yêu mến mê say 
Nay già lão được chính quyền sủng ái 
Lưng còng xuống quên cả lời mình hứa 
Phản bội những điều trong cuốn sách thiêng liêng…”
(Hoa Ti Gôn)
Có người cho rằng, Lưu Quang Vũ có trái tim thủy tinh trong sáng đa cảm, nhưng mong manh rất dễ vỡ. Vâng đúng như vậy! Những cái mong manh, trong sáng đa cảm ấy của ông đã hòa trộn vào nhau dệt lên những câu thơ làm rung hồn người. Cùng thời cũng có nhiều thi sỹ viết về tình yêu rất hay, nhưng thơ tình Lưu Quang Vũ có một nét riêng khá độc đáo. Cái nét mang mang hoài cổ ấy như những vết mực của tiền nhân còn rớt lại. Nó khó có thể lẫn lộn với những thi sỹ cùng thời. Lưu Quang Vũ viết và tặng thơ tình cho nhiều người, nhưng phải nói những bài thơ tình viết về nghệ sỹ Tố Uyên là hay nhất của ông. Bài thơ Vườn Trong Phố là một trong những bài hay đó, đã được nhiều người nói đến. Đến nay Hà Nội vẫn còn lưu truyền mối tình đẹp từ thuở học trò của hai người nghệ sỹ Tố Uyên, Lưu Quang Vũ. Họ cũng tiếc cho mối tình đó sớm phải ly tan. Nhưng sự đàm luận về nguyên nhân tan vỡ của hai người nghệ sỹ này, ở ngoài đời cũng như trên truyền thông báo chí dường như chưa có hồi kết. ..
Có lẽ bước chân chập chững vào đời của tôi có một chút hao hao giống Lưu Quang Vũ nên dễ đồng cảm hơn chăng? Cái thời quản lý con người bằng tem phiếu thực phẩm thông qua hộ tịch hộ khẩu, ai không có việc làm, dưới con mắt người đời chẳng khác gì những con ghẻ của xã hội. Trong hoàn cảnh như vậy, tôi bỏ dạy học, rồi sau đó bỏ trường đại học ngoại ngữ (hay bị đuổi khỏi trường – cũng vậy thôi). Lang thang, vật vờ đến nỗi người thân ruột thịt còn cảm thấy chán mình, thì làm sao tình yêu còn ở lại với ta. Từ trong tăm tối, bùn lầy ấy, thời gian sau ta tự mình đứng dậy, tiền đầy túi, cưỡi trên chiếc xe CD 90 hoàng tử đen, Hà Nội thời đó chỉ có mấy chiếc. Chắc chắn người đời sẽ nhìn ta bằng những ánh mắt khác. Nhà thơ Lưu Quang Vũ cũng vậy, vật vờ đói rách (vô công rồi nghề) làm sao mà giữ được tình yêu to lớn của Tố Uyên đang hừng hực trên sàn diễn, được người đời săn đón, khi cơm áo gạo tiền đang đè nặng trên vai? Trong hoàn cảnh này, không có bức tường ngăn, tình yêu còn ở lại mới là chuyện lạ.
Bài thơ Có Những Lúc, thể hiện đậm nét nhất cái chán chường bi quan, nếu như không muốn nói có một chút yếu đuối của con người nghệ sỹ Lưu Quang Vũ. Ông muốn thoát ra khỏi cái lồng chật chội kia, nhưng không đủ nghị lực, can đảm phá bỏ nó. Để rồi một mình ông cô đơn đau đớn, lang thang trong đêm vắng:
“Có những lúc tâm hồn tôi rách nát 
Như một chiếc lá khô, như một chồng gạch vụn 
Một tấm gương chẳng biết soi gì 
Một đáy giếng cạn khô, một hốc mắt đen sì 
Trời chật chội như chiếc lồng trống rỗng.. 
..Tôi biết làm gì, tôi biết đi đâu 
Tôi chẳng còn điếu thuốc nào 
Đốt lên cho đỡ sợ 
Yếu đuối đến cộc cằn thô lỗ 
Tôi xấu xí mù lòa như đứa trẻ mồ côi… 
…Tôi chán cả bạn bè 
Mấy năm rồi họ chẳng nói được câu gì mới 
Tôi bỏ đi họ ngồi lại 
Tôi đi một mình trong phố vắng ban đêm 
Tôi chẳng dám về trong căn phòng nhỏ của em…”
Anh Tùng (Nga) người Huế tập kết ra Hà Nội, nhà trong xóm Hạ Hồi, làm ở Viện Thủy Lợi, nghe kể, anh là hàng xóm và là bạn thuở thiếu thời của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Anh cũng hành thêm nghề buôn bán máy khâu cùng tôi. Anh Tùng thỉnh thoảng đưa tôi đến nghệ sỹ Tú Uyên nhà ở trong con ngõ nhỏ, phố Tô Hiến Thành chơi. Chúng tôi hay tụ tập hàng café chị Liễu góc phố Quang Trung – Hạ Hồi. Tôi có xe gắn máy, nên chiều tối chị Tố Uyên thường nhờ, chở chị xuống đón cháu nhỏ gửi ở Đồng Tâm (khu trường đại học kinh tế kế hoạch). Có lần chị cho tôi xem tấm ảnh đám cưới của chị và nhà thơ Lưu Quang Vũ chụp chung với chú Phạm Quang Nhuận. Chị hỏi tôi có hay gặp chú Nhuận không? Tôi trả lời, tuần nào cũng đến thăm chú. Chị bảo, gặp chú Nhuận nói với chú bảo ông Vũ bỏ cái…con…
Chị nói một thôi một hồi. Lúc này nhà thơ Lưu Quang Vũ đang nổi tiếng với những vở kịch về cuộc sống xã hội đầy gai góc. Điều này có thể cảm thông, chị tuy là một nghệ sỹ tên tuổi, nhưng cũng không thoát ra khỏi những suy nghĩ của phụ nữ bình thường khác. Nếu như nhà thơ Lưu Quang Vũ vẫn còn lang thang, đói rách có lẽ không có câu nói này của chị.
Những bài thơ của Lưu Quang Vũ được viết bởi những lúc ngẫu hứng. Hay nó chảy (ộc) ra trong cái bế tắc của cuộc sống, quằn quại đau đớn của tâm hồn. Cho nên thơ của ông ta bắt gặp nhiều hình tượng, tượng trưng đôi khi là siêu thực đến khó hiểu:
“… Những ban mai xanh biếc đàn bầu
Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước
Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích
Lúa bàng hoàng chín rực cả triền sông”
Gần đây lại thấy một số nhà phê bình đè nghiến thơ Lưu Quang Vũ ra, dùng đại đao lý luận để mổ xẻ. Khổ lắm, thơ nó bất chợt chảy ra như thế nào, ông Lưu Quang Vũ cứ làm nhiệm vụ ghi lại một cách tự nhiên như thế. Chứ nào ông có kịp nghĩ (không nghĩ hoặc không biết) phải thi pháp này phương pháp luận kia. Thôi thì cứ việc cho nó vào khuôn khổ thi pháp lý luận sáng tác của các bác. Nhưng xin bạn đọc sau đó, cứ cảm thụ thơ của Lưu Quang Vũ bằng những xúc cảm tự nhiên của mình, chứ đừng mang phương pháp sáng tác để soi rọi, nó không còn hay nữa. Có ba ông nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, Trần Mạnh Hảo, Lưu Quang Vũ, chạc tuổi, mới làng nhàng trung học, không riêng tôi mà có rất nhiều người yêu thích những bài thơ viết ra từ những cảm xúc tự nhiên của họ. Cũng may, các bác này chưa hay không được tu luyện. Chứ nếu ba bác nhà thơ trên được đào tạo bài bản ở các trường đại học, khi sáng tác các bác cứ đem ba rem lý luận đã học ra, đọc chán chết.
Bài Nhà Chật của Lưu Quang Vũ là một trong những bài thơ tiêu biểu về cái ngẫu hứng tự nhiên nhưng rất thật, rất hay về những ước mơ xa vời ấy. Bên cửa sổ của gian phòng nhỏ/ Mắt em xanh thăm thẳm những chân trời :
“Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi
Nếu nằm mơ, em quờ tay là chạm vào thùng gạo
Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo
Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình.
Nhà chật như khoang thuyền hẹp nhỏ giữa sông
Vừa căng buồm để đi, vừa nấu cơm để sống
Phải bỏ hết những gì không cần thiết
Ta chỉ có mấy thước vuông cho hành lý của mình.
Khoảng không gian của anh và em
Khi buồn bã em không thể quay mặt đi nơi khác
Anh không giấu em một nghĩ lo nào được
Ta chỉ có mấy thước vuông để cùng khổ cùng vui.
Anh ngẩng lên là ở cạnh em rồi
Bạn thuyền ơi, ngoài kia chiều lộng gió
Bên cửa sổ của gian phòng nhỏ
Mắt em xanh thăm thẳm những chân trời”
Mỗi lần đọc bài thơ Nhà Chật của Lưu Quang Vũ làm tôi lại nhớ. Khoảng tháng 10 năm 1988 Thứ trưởng Nguyễn Thiện Luân và Tiến sỹ Kính vụ trưởng kỹ thuật của bộ nông nghiệp sang làm việc ở thành phố Leipzig. Chiều tối buồn buồn các bác hay đến chỗ tôi chơi. Các bác báo tin buồn mấy ông quan, họ bên mẹ tôi vừa từ trần. Trong đó có ông anh trong họ, Đặng Hồi Xuân Bộ trưởng y tế bị rớt máy bay ở Thái Lan. Và vợ chồng nhà thơ Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh cũng tử nạn ở Hải Dương. Nghe nói vợ chồng nhà thơ vừa được cấp căn hộ lắp ghép. Không biết vợ chồng thi sỹ đã kịp dọn đến ở, để thỏa mãn ước vọng thăm thẳm những chân trời hay chưa? Nhưng nghệ sỹ Tố Uyên đã sảy ra tranh chấp căn hộ này? Nghĩ tội cho cái số lận đận, chẳng những trong thơ, trong cuộc sống hàng ngày mà cả sau khi đã mất của nhà thơ Lưu Quang Vũ.
Có thể nói giai đoạn sau khi kết hôn với nữ sỹ Xuân Quỳnh, thơ của Lưu Quang Vũ nói như các nhà phê bình văn học là có lối thoát, có khát vọng cuộc sống. Thật vậy, bài Nói Với Con Cuối Năm, Lưu Quang Vũ đã dùng hình ảnh thật chuyện trò với con để nói lên cái khát khao của cuộc sống. Từ trong những tối tăm, đói nghèo ấy ông đã mơ và hy vọng về một cuộc sống yên bình ở một nơi xa nào đó:
“…Tết hòa bình đầu tiên
đất nước nghèo xơ xác
cha cũng chẳng đủ tiền
mua cho con áo đẹp
chiều bên sông gió rét
con lặng nhìn tít tắp bãi ngô xa
– Bên kia sông là gì hở cha?
– Bên kia sông có đường đất đỏ
có ruộng mía trổ cờ trắng xoá
những vườn đầy quả ngọt những đồng hoa.
– Có bươm bướm không cha?
– Có, có rất nhiều bươm bướm
Con thì thầm trong hơi thở mạnh
– Sông rộng thế làm sao sang được?
Cha ôm con vào lòng, con bé bỏng của cha
– Bên kia sông có nhiều bướm nhiều hoa
rồi cha con ta sẽ tìm được con đò
đi sang bên ấy”
Những nhà thơ viết nhanh bằng những cảm xúc bất chợt, thường ngẫu hứng thăng hoa có những bài rất hay và ngược lại có nhiều bài dở. Lưu Quang Vũ cũng không nằm ngoài qui luật đó. Bài Lá Bưởi Lá Chanh được viết năm ông mười bảy tuổi. Tôi cho rằng, đây là bài thơ dở của ông. Nếu như bài này không có hai câu kết/ Từng viên đạn lắp vào nòng pháo/ Bồi hồi nghe hương lá bưởi lá chanh. Thì ngay cái tựa đề bài thơ cũng trôi tuột mất. Bài thơ Sông Hồng, không biết Lưu Quang Vũ viết vào năm nào? Bài thơ không chắt lọc, như kể chuyện nhưng thiếu hình ảnh và cảm xúc:
“…trăm đứa con xuống biển lên rừng
ở lại Phong Châu, người con thứ nhất
vua Hùng Vương thứ nhất nước Văn Lang
sóng và phù sa – khái niệm đầu tiên
nước và đất để nay thành Đất Nước…”
Từ trước đến nay đã nhiều người viết về Sông Hồng, nhưng bài thơ Sông Hồng Chiều Đông của Hoàng Cát, mang mang hoài cổ là bức tranh toàn bích, tôi tâm đắc nhất.
Nhà một nhà thơ nhưng nhiều người chỉ biết Lưu Quang Vũ là người viết, biên kịch. Bởi vì ông quá nổi tiếng với những vở kịch mang tính xã hội đầy gai góc, còn thơ ông kén người đọc. Trong một thời gian không dài, ông đã viết, biên soạn gần 50 vở kịch, quả thật một công việc chưa ai làm được. Đời chỉ cần để lại cho đời được vài ba tác phẩm như Lưu Quang Vũ đã là ước mơ của nhiều nghệ sỹ rồi. Có người cho rằng, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận (cha của LQV) và Xuân Quỳnh đóng góp vào những tác phẩm trên không nhỏ, nếu như không muốn nói là đồng tác giả. Đây là ý kiến có cơ sở cần tôn trọng và nghiên cứu.
Gần đây có một số bài báo viết ca ngợi mối tình Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, đọc thấy buồn. Tác giả bê nguyên bài thơ Lưu Quang Vũ viết cho Tú Uyên khi còn đang yêu, tặng nghiến cho Xuân Quỳnh. Những bài thơ tình của Xuân Quỳnh viết từ thuở xa lắc gán tặng cho Lưu Quang Vũ khi đó còn là một cậu bé. Đành rằng không ai phủ nhận tình cảm vợ chồng của Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh qua những bài thơ họ đã viết cho nhau. Nhưng thi vị hóa quá mức, nó sẽ ở cõi trên mất rồi.
Cho đến hôm nay, sau 24 năm ngày mất, bi kịch của vợ chồng thi sỹ Lưu Quang Vũ vẫn chưa có hồi kết. Từ trong nước cho đến hải ngoại còn nhiều người xì xào bàn tán. Họ cho rằng, có bàn tay nào đó đứng sau cái chết của ông. Nhưng tôi cứ dứt khoát không tin. Con người độ lượng đáng yêu như ông, dù có bàn tay lạnh tanh, lông lá như thế nào đi chăng nữa cũng không đủ can đảm làm cái công việc man rợ đó.
Viết xong, định đọc lại, nhưng trước mắt tôi chỉ còn một tấm màn nhung rách, chưa thể hạ xuống, bay phần phật.
Leipzig ngày 3-12- 2012
Đ.T.
Tác giả gửi cho blog NTT
This entry was posted on 04/12/2012, in Báo chí.

Lưu Quang Vũ – vở kịch chưa thể hạ màn.

Lưu Quang Vũ – vở kịch chưa thể hạ màn.

ĐỖ TRƯỜNG

 .

gia đình LQV

<= Gia đình Lưu Quang Vũ – Từ trái sang: Lưu Quỳnh Thơ, Lưu Tuấn Anh, nhà thơ Xuân Quỳnh, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ, Lưu Minh Vũ – Ảnh Internet

Tôi có ông bạn, quen nhau từ cái thuở làm chung trong cái lò giết mổ heo của thành phố Leipzig. Sát sinh nhiều nên bị ám ảnh, sau khi nhà máy giải thể, hắn đã chuồn về quê gõ mõ tụng kinh, tầm sư học nghề. Năm sau quay lại Đức, hắn giở trò bói toán, tử vi lá số. Đến chơi, thấy tôi viết về nhà thơ Lưu Quang Vũ, hắn chép miệng, tiếc cho một tài năng lớn đang ở độ chín thì phải ra đi. Rồi hắn quả quyết, nếu như Lưu Quang Vũ lấy vợ muộn hơn một chút thôi, số phận chắc chắn sẽ đổi khác. Không hiểu hắn móc đâu ra ngày giờ sinh của Lưu Quang Vũ và phán kiểu vuốt đuôi: Tiếp tục đọc

Lan Man từ chuyện Câu Tiễn đến đền Preah Vihear

Lan Man từ chuyện Câu Tiễn

đến đền Preah Vihear

Phạm Thanh Nghiên

.

Khi giải tán cuộc biểu tình ôn hòa đầu tiên của người dân Hà Nội ngày 9-12-2007 chống bá quyền Trung Quốc (và nhiều cuộc biểu tình sau này), công an cộng sản Việt Nam đã loa rằng: “Việc này của đảng và nhà nước, để đảng và nhà nước lo, để đảng và nhà nước đòi”. Ngoài việc “loa” công khai giữa cuộc biểu tình, công an còn “mời” hoặc triệu tập những người yêu nước lên trụ sở để giải thích (thực chất là răn đe) rằng: “Trung Quốc mạnh, ta yếu, phải biết lùi. Phải tạm thời nhún họ. Yên tâm! Kiểu gì cũng lấy lại được những gì đã mất. Cho nên đừng dại mà gây rối”.

Có nghĩa là chính quyền cộng sản Việt Nam hoàn toàn biết ta đã mất, đang mất những gì. Ở đây, chỉ phân tích hai ý trong lời vỗ về, hứa hẹn của công an cộng sản Việt Nam.

Tiếp tục đọc

Lan Man từ chuyện Câu Tiễn đến đền Preah Vihear

Phạm Thanh Nghiên

Khi giải tán cuộc biểu tình ôn hòa đầu tiên của người dân Hà Nội ngày 9-12-2007 chống bá quyền Trung Quốc (và nhiều cuộc biểu tình sau này), công an cộng sản Việt Namđã loa rằng: “Việc này của đảng và nhà nước, để đảng và nhà nước lo, để đảng và nhà nước đòi”. Ngoài việc “loa” công khai giữa cuộc biểu tình, công an còn “mời” hoặc triệu tập những người yêu nước lên trụ sở để giải thích (thực chất là răn đe) rằng: “Trung Quốc mạnh, ta yếu, phải biết lùi. Phải tạm thời nhún họ. Yên tâm! Kiểu gì cũng lấy lại được những gì đã mất. Cho nên đừng dại mà gây rối”.
Có nghĩa là chính quyền cộng sản Việt Nam hoàn toàn biết ta đã mất, đang mất những gì. Ở đây, chỉ phân tích hai ý trong lời vỗ về, hứa hẹn của công an cộng sản Việt Nam.

Họ khẳng định ta (chỉ chính quyền cộng sản Việt Nam) yếu, Trung Quốc mạnh, phải biết lùi, biết nhún. Tức các ông cầm quyền không hề hèn, không hề “bán nước” như một số nhân vật đối kháng hay những trang báo “lề dân” nhận định. Mà họ đang dùng chiến thuật “nghị hòa để cứu nước”, hoặc “lùi một bước tiến ba bước”. Hay hiểu nôm na rằng, cứ để đối phương “tạm thời” cướp và hả hê với chiến thắng, ta “ngấm ngầm” chuẩn bị lực lượng cho lớn mạnh, chờ khi có cơ hội, nhân lúc địch thiếu cảnh giác, ta tấn công đòi lại những thứ chúng đã cướp (Thế là hoàn thành sứ mệnh một cách đơn giản). Chiến thuật này là một trong những kế dụng binh được một số mưu lược gia thời cổ áp dụng khá thành công.

Xin mượn một chuyện cổ để minh họa và để “ôn cố tri tân”:
Khi Việt Vương Câu Tiễn đại bại trước đại binh của Ngô Vương Phù Sai, ông này đã phải tính kế sách “nghị hòa cứu nước”, chấp nhận sống thân phận con tin ba năm ở nước Ngô, chịu đủ thứ gian khổ, tủi nhục. Trong cuốn “Những mẩu chuyện lịch sử Trung Quốc” có đoạn viết: “Vợ chồng Câu Tiễn mặc y phục tội phạm, nước mắt giàn giụa, quỳ trước Ngô Phù Sai ngỏ ý đầu hàng và một dạ trung thành với nước Ngô”. Trong thời gian làm con tin, có hai nỗi nhục mà Câu Tiễn đã nếm trải, khiến bản thân ông ta phải than rằng “không còn muốn sống”. Lần thứ nhất, đích thân ông phải đi bộ, dắt ngựa cho Phù Sai cưỡi đi chơi trước sự giễu cợt, khinh bỉ của dân chúng nước Ngô. Lần thứ hai, ông phải “dùng lưỡi nếm phân” để bắt bệnh cho Ngô Vương. Mọi việc làm của ông ta đã lấy được sự tin tưởng tuyệt đối của Ngô Vương. Cuối cùng, sau ba năm, Câu Tiễn thoát thân phận nô lệ, trở về cố quốc.
Về nước, Việt vương Câu Tiễn đẩy mạnh việc xây dựng quốc gia, đưa nước Việt tiến lên con đường giàu mạnh, tích cực chuẩn bị chiến tranh để tấn công nước Ngô, trả mối nhục quốc thể. Sau khoảng mười năm chuẩn bị từ khi về nước, Câu Tiễn đã tiêu diệt được nước Ngô, thu về vô khối chiến lợi phẩm cho nước Việt, bản thân Phù Sai phải tự vẫn vì cầu hòa bất thành.
Trở lại chuyện bên ta. Bản Hiến Pháp nước CHXHCN Việt Nam (thời Lê Duẩn), trong phần “lời nói đầu” đã chỉ đích danh Trung Quốc là “bọn bá quyền Trung Quốc” (được hiểu là kẻ thù của Dân tộc). Rõ ràng, chính giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam hơn ai hết hiểu rất rõ dã tâm thôn tính nước ta về mọi mặt của Trung Cộng. Nhưng rồi, “nhận thức” trên của lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã thay đổi, thể hiện bằng việc bỏ đi cụm từ “bọn bá quyền…” trong bản hiến pháp năm 1992. Tệ hại đến mức, đến nay, kẻ thù của Dân tộc nghiễm nhiên trở thành “ông bạn quý” lấp lánh mười sáu chữ vàng với tinh thần bốn tốt: “láng giềng tốt, đ…tốt, …tốt, …tốt”. Những khẩu hiệu, cụm từ hoa mỹ được nở rộ trên môi trên miệng của các vị lãnh đạo cộng sản Việt Namở bất cứ nơi đâu, trong bất kỳ thời điểm nào khi nói đến Trung Quốc. Cảm thấy như thế còn chưa lột tả hết thiện ý, các báo đài cùng cả hệ thống truyền thông, ra rả ca ngợi mối tình thủy chung son sắt (!) của hai nước Việt- Trung. Họ nhồi cho con nít cũng phải thuộc nằm lòng, còn người lớn phải… chướng bụng mửa ra.
Nhận thức của “ta” thì thay đổi, vậy nhận thức của “địch” có thay đổi cho tương xứng với mười sáu chữ vàng hay không? Người viết bài này không có tham vọng “thống kê” các tội ác, hành động của Trung Cộng trong đó bao gồm cả sự thỏa thuận, tiếp tay của phía Việt Nam trong chính sách xâm chiếm của họ vì đã có quá nhiều nhà nghiên cứu, bậc trí thức hay những người quan tâm đến vận mệnh của đất nước phân tích, đánh giá và phản ánh. Dưới đây, chỉ xin nhắc lại một vài sự kiện, lấy mốc thời gian từ năm 1958 đến nay để minh họa cho ý kiến của mình.
Năm 1958, ông Phạm Văn Đồng đã đại diện cho ĐCS Việt Nam ký bản Công Hàm chấp nhận và tán thành Bản tuyên bố của ĐCS Trung Quốc về bề rộng lãnh hải của Trung Quốc bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam.
Năm 1979 Trung Quốc đem quân sang “Dạy cho Việt Nam một bài học” gây ra cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu.
Tháng ba năm 1988, đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa.
Hiệp định biên giới trên đất liền VN-TQ tháng 12/1999 và hiệp định phân định lãnh hải VN-TQ một năm sau đó đã làm mất gần một ngàn cây số vuông dọc biên giới Việt-Trung. Thác Bản Giốc và Ải Nam Quan cùng một phần Vịnh Bắc Bộ đã được cống hiến cho Bắc Triều.
Năm 2007, xây dựng khu hành chính Tam Sa để quản lý Trường Sa và Hoàng Sa của ta. Liên tiếp những hoạt động xâm chiếm công khai được phía Trung Quốc thực hiện ngang nhiên.
Do lú lẫn tình nguyện tròng cổ vào cái xiềng XHCN, phía “bạn” còn rất dễ dàng thôn tính cả các lĩnh vực từ chính trị, văn hóa đến kinh tế…
Đồng bào trong nước cũng như cộng đồng người Việt tại hải ngoại đã dấy lên làn sóng quyết liệt phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc và cảnh tỉnh nhà cầm quyền Việt Nam nhưng suốt mấy năm qua, chính quyền VN không những không lấy lại được những gì đã mất mà còn tiếp tục để Trung Quốc lấy đi những gì mà chúng ta còn lại! Họ không những không trân trọng những tiếng nói yêu nước mà còn gia tăng đàn áp bằng cách bỏ tù, sách nhiễu, khủng bố, đánh đập… những ai dám động chạm đến “ông bạn vàng” của họ.
Rõ ràng mấy ông lãnh đạo cộng sản Việt Nam không phải đang dùng kế “nghị hòa cứu nước”, chịu nhục trước mắt (chấp nhận cho bọn quan chức cấp thấp Trung cộng tiếp cấp cao cộng sản Việt Nam) để báo thù sau này. Câu Tiễn xưa chỉ giả vờ thuần phục (tạm thời) để nuôi kế báo thù. Ông ta cũng chỉ mất khoảng một thập kỷ là hoàn thành sứ mệnh vì đã có kế hoạch định sẵn. Một mình Câu Tiễn chịu nhục, trong khi cả dân tộc đồng lòng, chờ mệnh lệnh của ông ta tấn công đánh giặc.
Mấy ông công an tự xưng đại diện cho đảng, nhà nước hứa với tôi sẽ lấy lại được những gì đã mất nhưng, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, đất vẫn mất, biển đảo vẫn mất, con dân Việt Nam vẫn phải chết oan ức trên biển của Tổ Quốc mình, nỗi nhục quốc thể cả Dân tộc vẫn phải mang nặng. Đến bao giờ…! Nhìn sang hai nước trong khu vực là Thái Lan và Cam-pu-chia, thấy thẹn và… thèm.
Tôi không định cổ xúy cho xung đột, cho chiến tranh. Cũng không định bình luận hay kết luận chủ quyền của ai tại ngôi đền tranh chấp Preah Vihear. Nhưng ít ra, lãnh đạo của cả hai quốc gia này đều hiểu rõ giá trị tinh thần mà họ mang lại cho người dân. Công dân của họ cảm thấy yên tâm khi thấy mình thật sự được tôn trọng và được bảo vệ. Hoặc chí ít, không bị chính quyền coi là kẻ chống đối nếu hô: “Preah Vihear là của Thái Lan”, “Preah Vihear là của Cam-pu-chia”. Ngôi đền Preah Vihear có thể mang nặng giá trị về tín ngưỡng, tinh thần hơn là giá trị kinh tế, nhưng cả Thái Lan lẫn Cam-pu-chia đều không muốn mất. Điều gì khiến hai nước tranh chấp kéo dài suốt cả thế kỷ qua và gia tăng trong những năm gần đây? Tất nhiên có nhiều nguyên nhân mà một công dân ở một nước láng giềng như tôi, hạn chế về thông tin cũng như hiểu biết có hạn không thể tường tận được. Song cũng xin mạo muội mà bày tỏ suy nghĩ đơn giản rằng: Phải chăng, lãnh đạo của họ muốn ngăn chặn những thứ sẽ mất trong tương lai khi hai bên đều nhìn thấy nguy cơ nếu để mất ngôi đền? Đứng trước sự lựa chọn khó khăn, không để đối phương “được đằng chân lân đằng đầu”, dẫn đến nhiều hệ lụy về sau đời con cháu gánh chịu. Không vô lý khi cho rằng, giới lãnh đạo hai nước đã chấp nhận xung đột “tạm thời”, hòng tìm kiếm cơ hội cho cả hai bên. Bởi vấn đề này đã được đưa lên Tòa án Quốc tế vì Công lý. Khi binh sĩ hai bên đã nã súng vào nhau, lập tức cả phía Thái Lan lẫn Cam-pu-chia đều tiến hành các biện pháp ngoại giao nhằm ngăn chặn chiến sự leo thang.
Trong một thế giới bị chi phối bởi những mối quan hệ đa phương, song phương phức tạp, cộng thêm các vấn đề về chủ quyền và lợi ích Dân tộc, giải pháp cho tất cả các bên liên quan rất khó khăn nhưng không phải không thực hiện được. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, quan trọng nhất là quyết định sáng suốt của nhà cầm quyền. Người lãnh đạo cho dù có là thiên tài thì ông ta cũng tự làm ngu mình nếu coi thường ý kiến của người dân, nguy hiểm hơn là coi dân là kẻ thù. Điều đó mang mầm mống của sự diệt vong.
Người Thái Lan và người Cam-pu-chia không chịu mất ngôi đền với diện tích nhỏ bé Preah Vihear. Chẳng nhẽ người Việt chúng ta cứ để mất dần những gì cha ông để lại mà không làm được gì sao?
Ngày hôm nay là tấm hộ chiếu Trung Quốc in hình lưỡi bò, ngày mai có thể đến lượt hình Tháp Rùa Hà Nội, hay chợ Bến Thành xuất hiện lên đâu đó trong tấm bản đồ Trung Quốc. Và để đối phó với những tiếng nói yêu nước, biết đâu trong một chuyến “đi đêm”, lãnh đạo cộng sản Việt Nam lại cầu cạnh rằng: “Ông anh vừa vừa hoặc cầm chừng cho thằng em nhờ. Bọn dân ngu khu đen trong nước phản đối ghê quá, em không thể làm ngơ mãi được”. Thế là lãnh đạo Trung cộng đành tặc lưỡi mà rộng lượng phán rằng: “Thôi chú mày cứ cho bọn ngư dân ra biển đánh cá, anh sẽ tạm thời không bắn giết gì hết. Nhưng nhớ là phải dẹp ngay bọn to mồm nhé. Phải thiến hoạn hết chất anh hùng của chúng nó, dạy cho chúng sống kiếp tôi đòi như các chú ấy. Có như thế, anh mới cứu được chú. Có mỗi thế mà chú mày cũng không làm nổi”. Cuộc “mặc cả” xong xuôi, bà con ngư dân Việt Nam ra biển không bị mất mạng (tất nhiên chỉ một thời gian nhất định nào đó thôi, khi Trung cộng có kế hoạch mới thì coi như lời hứa kia hết hiệu lực). Lãnh đạo cộng sản Việt Nam sẽ được thể lên mặt với nhân dân rằng: Đấy là do chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo của ta nên ngư dân mới được yên tâm ra biển. Thể hiện trí tuệ đỉnh cao của đảng và nhà nước v.v… và v.v… Bọn “chống đối” không còn cơ hội lên tiếng, bọn khác đang trên đà nhận thức lại sẽ không có cơ hội nghi ngờ, sẽ phải tin và khen đảng rối rít. Rồi ra sẽ tự ân hận vì chót nghi ngờ đảng, chuộc lỗi bằng cách mắng mỏ chửi rủa bọn “phản động”, bọn “gây rối”.
Việt Namkhông phải không có hay không còn cơ hội lấy lại những gì của chính mình. Nhưng phải dựa vào sức mạnh của Dân tộc, dựa vào bằng chứng lịch sử và Luật pháp Quốc tế chứ không phải bằng con đường “đi đêm” của lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Chừng nào những người yêu nước còn bị bỏ tù, chừng nào đảng cộng sản Việt Nam còn cầm quyền thì sẽ có ngày nhân dân Việt Namphải sống lưu vong trên chính mảnh đất quê hương của mình. Và nguy cơ về một Dân tộc lưu vong sẽ thành hiện thực.
Hải Phòng, tháng 12/2012
 Tác giả gửi cho blog NTT
This entry was posted on 04/12/2012, in Báo chí.

Bia mộ

Huỳnh Văn Úc
.
Đại nhảy vọt là cái tên đặt cho Kế hoạch 5 năm lần thứ hai 1958-1963 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ý tưởng kế hoạch này của Mao Trạch Đông là sự phát triển nhanh chóng và song song của nông nghiệp và công nghiệp Trung Quốc. Về nông nghiệp Mao chủ trương tập thể hóa một cách sâu rộng hơn, các hợp tác xã sẽ được sáp nhập thành các Công xã nhân dân khổng lồ. Quyền sở hữu đất đai được xóa bỏ hoàn toàn, thu nhập của nông dân được tính bằng công điểm. Mọi tài sản bất kể là thứ gì đều trở thành công hữu. Bếp núc của gia đình cũng bị xóa bỏ, đến bữa già trẻ lớn bé đưa nhau đến ăn ở nhà bếp của công xã. Ăn thật no, thật ngon, thật sạch, mỗi bữa có bốn món thức ăn. Vào cuối năm 1958 trong toàn quốc đã thành lập 25.000 công xã với qui mô mỗi công xã có 5.000 hộ gia đình. Về công nghiệp Mao xem sản xuất thép là cột trụ chính. Ông ta quy định rằng trong vòng 15 năm kể từ Đại nhảy vọt sản lượng thép của Trung Quốc sẽ vượt qua nước Anh. Thép được sản xuất ra từ sắt vụn như nồi, xoong, chảo, dao, rựa ở các lò nung thép sân vườn, người người nấu thép, nhà nhà nấu thép. Nông dân bỏ bê sản xuất nông nghiệp để nấu thép kiểu sân vườn. Để cung cấp nhiên liệu cho các lò nấu thép sân vườn cây rừng bị đốn chặt bừa bãi. Kể cả bàn ghế và đồ đạc bằng gỗ trong nhà đều quăng vào lò nấu thép.

Những chính sách sai lầm đó của Mao Trạch Đông đã dẫn đến nạn đói năm 1958-1961. Năng suất lúa giảm mặc dù những năm đó mưa thuận gió hòa. Thậm chí lúa chín không có người gặt vì số lớn lao động đã chuyển sang sản xuất thép. Bất kể tình hình sản xuất có bi đát đến đâu các quan chức vẫn báo cáo lên cấp trên những số liệu màu hồng với những con số ngày càng bị thổi phồng. Người ta bịa ra những cánh đồng cao sản mỗi hecta cho 300 tấn thóc, hoặc 187 tấn ngô, năm hay bảy nghìn tấn khoai. Mao Trạch Đông tin tưởng và vui mừng trước những con số đó đến nỗi thốt lên rằng lương thực của Trung Quốc đủ dùng cho tất cả mọi người trên trái đất. Những con số này trở thành căn cứ để nhà nước ấn định lượng thóc mà nông dân phải nộp. Các đội công tác được cử xuống nông thôn truy bức nông dân giao nộp lương thực, phát động mọi người tố giác lẫn nhau để khai báo những chỗ cất giấu. Sự khác biệt giữa con số thực tế và con số bị thổi phồng khiến cho nông dân không còn lại gì để nuôi sống bản thân và gia đình. Nạn đói xảy ra và ngày càng trở nên gay gắt. Lương thực thực phẩm cạn dần, bếp ăn của công xã không còn cơm để ăn nữa, chuyển sang ăn cháo. Hết cháo rồi đến rau dại. Rồi thì chẳng có gì mà ăn nữa, mạnh ai nấy lo. Giun dế, côn trùng, cỏ dại, lá cây, vỏ cây và cả đất thó đều trở thành thức ăn. Đến giữa năm 1959 khắp Trung Quốc đầy rẫy người chết đói, nhiều gia đình chết không còn một ai, tiếng oán hờn thấu tận trời xanh. Đói đến mức trước khi chôn người chết tang chủ đã lóc thịt thân nhân để ăn, đổi con cho nhau để giết thịt lấy cái ăn. Trong giai đoạn 1958-1961 số người chết đói được thống kê một cách chưa đầy đủ là 36 triệu người.
ảnh HVU
<= Ảnh: Bìa cuốn sách Bia Mộ (STELES) của Dương Kế Thắng ( YANG JISHENG) viết về nạn đói ở Trung Quốc ( LA GRANDE FAMINE EN CHINE) phát hành tại Paris.

Dương Kế Thắng (sinh năm 1940) là phóng viên kỳ cựu của Tân Hoa Xã đã bỏ ra 15 năm để thu thập tài liệu và gặp gỡ nhiều nhân chứng để viết cuốn sách “ Bia Mộ” mô tả nạn đói kinh hoàng năm 1958-1961 mà cha ông là nạn nhân. Bị cấm ở đại lục nhưng tác phẩm được xuất bản ở Hồng Kông và chính quyền cũng không cản trở hay trấn áp tác giả.  “ Cuốn sách này là bia mộ cho cha tôi bị chết đói vào năm 1959, bia mộ cho 36 triệu người dân Trung Quốc nạn nhân của trận đói kinh hoàng, bia mộ cho chế độ đã gây ra thảm kịch này”. Tác giả đã viết như thế trong lời nói đầu của bản dịch tiếng Pháp vừa được Nhà Xuất bản Seuil phát hành tại Paris ngày 13/9/2012. Nếu được góp ý kiến cho ông Dương Kế Thắng, tôi muốn ông ghi thêm vào lời nói đầu: “ Cuốn sách này còn là tấm bia ghi lại tội ác diệt chủng của Mao Trạch Đông đối với đồng loại”.
H.V.U
Tác giả gửi cho blog NTT

Bia mộ

Bia mộ

Huỳnh Văn Úc

.

Đại nhảy vọt là cái tên đặt cho Kế hoạch 5 năm lần thứ hai 1958-1963 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ý tưởng kế hoạch này của Mao Trạch Đông là sự phát triển nhanh chóng và song song của nông nghiệp và công nghiệp Trung Quốc. Về nông nghiệp Mao chủ trương tập thể hóa một cách sâu rộng hơn, các hợp tác xã sẽ được sáp nhập thành các Công xã nhân dân khổng lồ. Quyền sở hữu đất đai được xóa bỏ hoàn toàn, thu nhập của nông dân được tính bằng công điểm. Mọi tài sản bất kể là thứ gì đều trở thành công hữu. Bếp núc của gia đình cũng bị xóa bỏ, đến bữa già trẻ lớn bé đưa nhau đến ăn ở nhà bếp của công xã. Tiếp tục đọc